Truyền thống quốc gia Phim chiến tranh

Trung Quốc

Những bộ phim chiến tranh đầu tiên của Trung Quốc là những mẩu tin tức như Battle of Wuhan (1911) và Battle of Shanghai (1913). Ở trong các bộ phim như Battle Exploits của Xu Xinfu (1925), chiến tranh chủ yếu chỉ là bối cảnh. Chỉ từ Chiến tranh Trung–Nhật lần thứ hai từ năm 1937 trở đi, phim chiến tranh mới trở thành một thể loại phim chính thống ở Trung Quốc, với những bộ phim mang tinh thần dân tộc như Protect Our Land (1938) của Shi Dongshan. Nội chiến Trung Quốc cũng thu hút các bộ phim như From Victory to Victory (1952) của Cheng Yin. Một bộ phim nhân văn hơn cũng lấy bối cảnh trong giai đoạn này là The Cradle (1979) của Xie Jin, còn những bộ phim thương mại quy mô lớn hơn gần đây có thể kể tới City of Life and Death (2009) của Lu Chuan.[94] Các đạo diễn Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng che đậy những hành động tàn bạo của người Nhật trong cuộc thảm sát Nam Kinh (1937–1938), với các bộ phim như Massacre in Nanjing, phim tài liệu chính kịch của Mou Tun Fei, Black Sun: The Nanking Massacre, và "truyền thống lãng mạn Trung–Nhật" Don't Cry, Nanking.[95] Bộ phim sử thi Trung Quốc The Flowers of War (2011) của Trương Nghệ Mưu, dựa trên cuốn tiểu thuyết của Geling Yan, miêu tả những sự kiện bạo lực qua con mắt của một cô bé 13 tuổi.[96]

Indonesia

Sư đoàn Siliwangi trong chiến đấu, trong một cảnh từ Darah dan Doa của Usmar Ismail, 1950.

Nhiều bộ phim của Indonesia đề cập đến việc Nhật Bản chiếm đóng các hòn đảo của quốc gia này trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Doea Tanda Mata của Teguh Karya (1985) đề cập đến cuộc kháng chiến của chủ nghĩa dân tộc đối với sự thống trị của thực dân Hà Lan trong những năm 1930.[97][98] Nhóm phim thứ ba bao gồm Enam Djam di Jogja (1951) và Serangan Fajar (1983) đề cập đến cuộc chiến giành độc lập của Indonesia (1945–1949). Hai bộ phim khác cũng nói về giai đoạn này là Darah dan Doa của Usmar Ismail (1950) và Mereka Kembali (1975). Mỗi bộ phim đều diễn giải quá khứ theo quan điểm của chính thời đại của tác phẩm.[98] November 1828 (1979) của Karya nhìn về cuộc đấu tranh giành độc lập của Indonesia thông qua bộ phim lịch sử về Chiến tranh Java hoặc Diponegoro (1825–1830), mặc dù kẻ thù thuộc địa cũng giống như người Hà Lan. Deanne Schultz coi đây là "một cách giải thích có giá trị" về lịch sử Indonesia và là "hiện thân nổi tiếng nhất của nền điện ảnh Indonesia". Đây là bộ phim Indonesia đầu tiên được quốc tế biết đến.[99] Bộ ba tác phẩm Merdeka (2009–2011), bắt đầu với Merah Putih, thể hiện lại chiến dịch giành độc lập thông qua cuộc sống của một nhóm học viên đa sắc tộc.[100]

Nga

Chiến tranh là thể loại chính của điện ảnh Nga, được gọi là "mặt chính của nền điện ảnh", và các bộ phim về chiến tranh của đất nước này trải dài từ những miêu tả tàn khốc đến tình cảm và thậm chí âm thầm lật đổ.[101] Tác phẩm nổi tiếng và "đẹp" nhất của Leonid Lukov[102]Two Warriors (1943) – mô tả cuộc hành trình của hai người lính Xô Viết kiểu mẫu, một người Nga trầm lặng và một người miền Nam hướng ngoại đến từ Odessa.[103] Nhiều bộ phim của Nga về Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm cả những tác phẩm sử thi quy mô lớn như Battle of Moscow (1985) của Yury Ozerov và tác phẩm tâm lý The Cranes are Flying (1957) của Mikhail Kalatozov về tác động tàn khốc của chiến tranh. Tác phẩm đã giành được giải Cành cọ vàng năm 1958 tại Cannes.[104]

Nhật Bản

Các đạo diễn Nhật Bản đã thực hiện những bộ phim nổi tiếng như Submarine I-57 Will Not Surrender (1959), Battle of Okinawa (1971) và Japan's Longest Day (1967) dưới góc nhìn của người Nhật.[105] Những tác phẩm này "nhìn chung không giải thích được nguyên nhân của chiến tranh".[106] Trong những thập kỷ ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phim Nhật thường tập trung vào bi kịch của con người hơn là chiến đấu, chẳng hạn như The Burmese Harp (1956) và Fires on the Plain (1959).[106] Từ cuối những năm 1990, các bộ phim bắt đầu có cái nhìn tích cực về chiến tranh cũng như các hành động của Nhật Bản. Những bộ phim chủ nghĩa dân tộc này, bao gồm Pride (1998), Merdeka 17805 (2001) và The Truth about Nanjing (2007), đã nhấn mạnh những đặc điểm tích cực của quân đội Nhật Bản và cho rằng người Nhật là nạn nhân của sự thù hận và ác độc thời hậu chiến. Tuy nhiên, những bộ phim như vậy lại là đối tượng của chủ nghĩa xét lại lịch sử.[106][107][108] Tác phẩm Eien no Zero (2013) kể về câu chuyện của một phi công chiến đấu cơ Zero, người bị đồng đội coi là kẻ hèn nhát khi anh vẫn còn sống sót trở về sau nhiệm vụ của mình. Bộ phim đã phá kỷ lục đối với một bộ phim hành động người đóng của Nhật Bản,[109] và đoạt giải Golden Mulberry tại Liên hoan phim Viễn Đông Udine,[110] nhưng lại bị chỉ trích vì có thiện cảm dân tộc với các phi công thần phong.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phim chiến tranh http://www.filmbiz.asia/news/eternal-zero-tops-jap... http://nla.gov.au/nla.news-article58094591 http://www.afi.com/silver/films/2014/p67/thegreatw... http://www.allmovie.com/movie/v40655 http://articles.baltimoresun.com/1993-10-09/featur... http://www.criterion.com/current/posts/342-the-bat... http://www.criterion.com/current/posts/8-alexander... http://www.criterion.com/current/posts/812-paths-o... http://www.historytoday.com/michael-paris/american... http://www.hollywoodmoviememories.com/articles/war...